Giáo sư, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng: "Bà tiên" của những cặp vợ chồng hiếm muộn

Sau nhiều lần liên hệ, tôi được gặp Giáo sư, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng tại bệnh viện Mỹ Đức, TP.HCM, khi bà vừa tư vấn, khám bệnh cho bệnh nhân xong. Dù 74 tuổi, nhưng trên khuôn mặt phúc hậu của bà toát lên sự minh mẫn, thân thiện khiến người ta dễ dàng nhớ đến hình ảnh một bà tiên giữa đời thường.

Bỏ tiền túi đầu tư cho kỹ thuật mới

Lâu nay, nhắc tới GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc bệnh viện Từ Dũ, người ta thường nhớ đến nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về ứng dụng tại nước nhà. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, để làm được việc này là cả một hành trình gian nan, đầy sóng gió. Kể về nguyên nhân vì sao lại muốn đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về nước, bà nhẹ nhàng cho biết: “Từng là một bác sĩ sản khoa, tôi  thường xuyên tiếp xúc với nhiều phụ nữ hiếm muộn. Qua những tâm sự của họ, tôi rất thương. Thậm chí nhiều người còn chịu áp lực tâm lý khắt khe  từ nhà chồng. Họ nỡ buông những câu như: “Cây độc không trái, gái độc không con”… làm tổn thương sâu sắc đến người phụ nữ. Một số chị em còn bị gia đình chồng xúi bỏ vợ…”.

Từ những nguyên nhân đó, GS Phượng luôn ấp ủ phải làm sao giúp được chị em hiếm muộn có con để họ tìm lại niềm vui, tìm lại hạnh phúc cho chính bản thân và gia đình. Năm 1984, trong một lần đi công tác tại Thái Lan, bà được thăm một cơ sở thụ tinh ống nghiệm. Lúc bấy giờ, là Giám đốc bệnh viện Từ Dũ, bà càng nhen nhóm khát khao làm sao đem kỹ thuật này về ứng dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, giai đoạn này, kinh tế đất nước còn khó khăn, nếu bỏ chi phí 3 triệu USD để thành lập trung tâm hỗ trợ sinh sản thì quá đắt đỏ, xa xỉ. Tuy nhiên, hy vọng của bà vẫn không bao giờ tắt. Từ đây, bà đã âm thầm lên kế hoạch tự mình “sản xuất” những em bé đầu tiên bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm tại bệnh viện Từ Dũ.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng.

Việc đầu tiên là bà tự xây dựng nền móng vững chắc tại bệnh viện Từ Dũ. Bà xây dựng các chuyên khoa cơ bản để hỗ trợ kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm như: Khoa Nội soi, khoa Xét nghiệm, mua máy siêu âm, máy xét nghiệm, xây dựng ngân hàng tinh trùng… “Chúng tôi không đủ tiền nên tự mua trả góp máy siêu âm, thiết bị máy móc liên quan xét nghiệm để  cải tiến quy trình xét nghiệm, điều trị vô sinh”, GS Phượng tiết lộ. Năm 1994, bà được cử sang Pháp bảo vệ luận án tiến sĩ. Bà may mắn được cấp học bổng để làm luận án giáo sư tại đại học Nice Sophia Antipolis. Trong 2 năm học, bà tự dọn đến ký túc xá ở, tự túc mọi thứ. Khoản học bổng 16.000 Fance mỗi tháng mà bà được nhận, bà dành dụm để mua máy móc, thiết bị y tế như: Máy siêu âm đầu dò, máy xét nghiệm, dụng cụ lưu trữ tinh trùng…gửi về bệnh viện Từ Dũ.

Sau khi về nước, GS Phượng cử những bác sĩ trẻ, năng động, chuyên môn giỏi, có trình độ ngoại ngữ giỏi qua Pháp học tập về kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm. Đó là những bác sĩ tên tuổi như: Hồ Mạnh Tường, Vương Thị Ngọc Lan của bệnh viện Từ Dũ. Sau khi hoàn tất khóa học, những bác sĩ này tiếp tục về nước cũng GS Phượng áp dụng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm cho những cặp vợ chồng trẻ vô sinh, hiếm muộn thành công. Và, sau 13 năm chuẩn bị từ cơ sở vật chất, thiết bị máy móc đến đội ngũ chuyên môn giỏi… GS Phượng đã đưa thành công kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm vào Việt Nam vào năm 1997.

Bà “tiên” của nhiều gia đình

GS.BS Ngọc Phượng cho biết, sau hàng chục năm chuẩn bị, cuối cùng tháng 8/1997, kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm chính thức được cấp phép tại bệnh viện Từ Dũ. Đến ngày 19/8/1997, 5 phôi thai thụ tinh ống nghiệm được chuyển vào tử cung của 5 phụ nữ. Sau đó, 32 phụ nữ khác cũng đăng ký và được chuyển phôi. Thời gian này, GS Ngọc Phượng liên tục gọi điện cho từng phụ nữ được chuyển phôi để hỏi thăm tình hình, xem họ có đậu thai hay không. Không khí căng thẳng, lo lắng như càng nhân lên từng ngày. Bởi, theo bà, đây là đầu thực hiện ứng dụng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm, nếu thất bại thì không còn cơ hội thực hiện triển khai kỹ thuật này.

Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng khám tư vấn cho bệnh nhân tại bệnh viện Mỹ Đức

Bà nhớ lại, chỉ vì áp lực, lo lắng trong lúc chờ kết quả có đậu thai hay không từ những phụ nữ được chuyển phôi, mái tóc của bà đã bạc trắng chỉ trong vòng 1 tuần. Thật may mắn, trong số 37 sản phụ được chuyển phôi thai thì có 12 sản phụ đậu thai. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt thành công đầu tiên của GS Phượng nói riêng và bệnh viện Từ Dũ nói chung về thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Giây phút hạnh phúc nhất của nữ giáo sư sau nhiều năm nghiên cứu kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm chính là thời điểm 3 em bé chào đời đầu tiên vào ngày 30/4/1998 tại bệnh viện Từ Dũ. Các bé là Mai Quốc Bảo, Lưu Tuyết Trân và Phạm Tường Lan Thy. Đây là những em bé ra đời bằng thụ tinh ống nghiệm và từ sự dày công nghiên cứu, đầu tư hàng chục năm của GS Phượng.

Cũng theo vị nguyên Giám đốc bệnh viện Từ Dũ, đến nay, kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm đã giúp cho ra đời hàng chục ngàn đứa trẻ khác nhau trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, điều khiến nữ giáo sư trăn trở nhiều nhất chính là chi phí thụ tinh ống nghiệm tại Việt Nam vẫn còn quá cao so với đời sống của người dân. Để tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ chi phí đến bệnh viện thụ tinh ống nghiệm, nữ giáo sư vẫn lặng lẽ làm việc mỗi tuần từ bệnh viện đến phòng khám.

Đặc biệt 4 năm qua, bà cho ra đời chương trình “Ươm mầm hạnh phúc”, ưu tiên những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh đến bệnh viện Mỹ Đức (bệnh viện tư bà tự thành lập –PV) thực hiện kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm hoàn toàn miễn phí. Sau 4 năm đã có 120 cặp vợ chồng đến đăng ký và đã có 48 em bé tiếp tục chào đời bằng thụ tinh ống nghiệm tại bệnh viện Mỹ Đức. Chính vì vậy, bà được người ta gọi với cái tên trìu mến, bà tiên giữa đời thường, người đã đeo mang tiếng khóc cười của trẻ thơ, mang mầm sống, gieo thêm niềm hạnh phúc cho hàng ngàn gia đình Việt Nam.

 Luôn tận tụy, nhiệt tình với công việc

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc bệnh viện Từ Dũ hiện là Chủ tịch hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM, Phó Chủ tịch hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam. Bà được Nhà nước phong tặng Anh hùng lao động. Đến nay ở tuổi thất thập cổ lai hy nữ giáo sư vẫn luôn cống hiến nhiệt tình, tận tụy và thu nhiều kết quả thành công rực rỡ trong công việc, nhất là tiếp tục giúp nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn vô sinh tại Việt Nam có con.

Lành Nguyễn