Khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, khắc phục hạn chế về liên kết Vùng
Theo Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên, để khắc phục các hạn chế và tiếp tục phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Vùng, thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển nhanh và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra, cần đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thành Quy hoạch các tỉnh, thành phố và Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, bảo đảm cân đối vùng, miền và phù hợp với định hướng Quy hoạch quốc gia và các quy hoạch ngành của cả nước; trong đó cần xác định việc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp theo chiều sâu, quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu là điều kiện quan trọng, xu thế tất yếu bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, cần đề cao tư duy phát triển Vùng, đặt quy hoạch, chiến lược phát triển từng tỉnh trong tư duy phát triển Vùng gắn với vai trò đầu tàu, hạt nhân phát triển vùng của Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó xây dựng các định hướng phát triển phù hợp và bố trí không gian hợp lý nhằm khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, khắc phục hạn chế về liên kết Vùng và khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của cả Vùng, cũng như của từng địa phương.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư; huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hoà với ngoại lực để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng kết nối quan trọng, quy mô lớn nhằm tăng cường liên kết giữa các địa phương trong Vùng và giữa vùng Đông Nam Bộ với các vùng kinh tế khác.
Chủ động tạo quỹ đất sạch và huy động hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy hoạch. Thúc đẩy hình thành và phát triển thực chất các khu đô thị công nghiệp và khu công nghiệp công nghệ cao, nhất là ở Tp.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; đồng thời, chú trọng xây dựng, phát triển các Cụm liên kết, hình thành Hệ sinh thái công nghiệp để tập trung thu hút các dự án công nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, góp phần đưa vùng Đông Nam Bộ thật sự trở thành trung tâm phát triển công nghiệp công nghệ cao của cả nước, khu vực và thế giới.
Nghiên cứu, đề xuất và ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ, đủ mạnh và khả thi nhằm khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, nền tảng mà Vùng có lợi thế cạnh tranh, như: Khai thác, chế biến dầu khí; cơ khí, chế tạo, chế biến; điện tử, viễn thông; hóa chất và năng lượng nhằm nâng cao tính chủ động trong sản xuất và giá trị quốc gia trong sản phẩm.
Ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao; phát triển nhanh hơn một số ngành, sản phẩm công nghiệp có tính “dẫn đường” như: chất bán dẫn, công nghiệp sản xuất rô-bốt, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, sản xuất phần mềm, sản phẩm số, vật liệu mới và các ngành công nghiệp hỗ trợ, từng bước tạo dựng mạng lưới vệ tinh cung cấp linh kiện phục vụ các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam và khu vực.
Bên cạnh đó, cần tạo lập cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, chia sẻ, hỗ trợ thực chất các doanh nghiệp trong nước cùng phát triển bền vững; đồng thời, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh chuyển đổi số, vươn lên, đủ khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ hiện đại và kỹ năng quản trị tiên tiến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tính độc lập, tự chủ của nền công nghiệp quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, doanh nghiệp số để Vùng thực sự đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng công nghệ cao, công nghệ số. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ logistics, hình thành trung tâm logistics kết nối đến các trung tâm động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm; đồng thời, tận dụng tối đa các cơ hội của các hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã ký kết để thu hút đầu tư, phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu…
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tham luận tại Hội nghị. |
Phát huy vai trò của các vùng đô thị lớn, hình thành các cực tăng trưởng quốc gia
Nêu ý kiến về Phát triển đô thị vùng Đông Nam Bộ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị cho rằng, cần tổ chức thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ từ định hướng quy hoạch và phát triển không gian kinh tế đô thị, đến ưu tiên tập trung đầu tư phát triển hạ tầng đô thị và nhà ở, khai thác lợi thế để phát triển hạ tầng đồng bộ, ứng dụng các giải pháp thông minh đi đôi với nghiên cứu, hoàn thiện thể chế chính sách. Cụ thể, về quy hoạch, định hướng phát triển hệ thống đô thị, phân vùng chức năng và tổ chức các không gian kinh tế đô thị. Phát triển vùng với mô hình tập trung - đa cực, đảm bảo sự thống nhất, cân bằng trong phát triển vùng và thích ứng với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Phát huy vai trò của các vùng đô thị lớn, đô thị lớn, trục hành lang kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, hình thành các cực tăng trưởng quốc gia có tính cạnh tranh quốc tế, kết nối thuận lợi với các đô thị lớn trong khu vực và trên thế giới; phát triển bền vững về môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; phát triển đô thị theo các đầu mối giao thông lớn, phát triển các đô thị vệ tinh kết nối thuận lợi với các trung tâm với hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, giảm tải cho các đô thị lớn, đô thị trung tâm, các cực tăng trưởng.
Theo ý kiến của Bộ Xây dựng, cần hạn chế mở rộng phát triển đô thị trên diện rộng, đặc biệt tại các khu vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Xây dựng và phát triển các cực tăng trưởng tại các đô thị trọng điểm tại các vùng có địa hình cao trên các trục hành lang kinh tế trọng điểm, các tuyến đường vành đai quan trọng và ở khu vực ngoại vi. Hình thành hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại và các công trình hạ tầng cấp vùng; tập trung phát triển hệ thống giao thông đường bộ, mạng lưới đường sắt đô thị nội vùng nhằm tăng cường kết nối vùng đô thị trung tâm và các cực tăng trưởng. Duy trì và bảo vệ các vùng sinh thái, cảnh quan tự nhiên đặc trưng, nguồn nước và các hành lang xanh trong vùng.
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị cũng cho rằng, cần phát triển có trọng tâm, trọng điểm việc xây dựng hệ thống đô thị ven biển của vùng trở thành các trung tâm kinh tế trên địa bàn vùng, là các hạt nhân lan tỏa thúc đẩy phát triển kinh tế của cả vùng và các vùng lân cận. Tập trung đầu tư nâng cao chất lượng đô thị, cấu trúc đô thị hài hòa với cảnh quan tự nhiên, ưu tiên hình thành các vùng không gian xanh. Sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế phát triển theo mô hình đô thị lan tỏa. Kiểm soát chặt chẽ quá trình đô thị hóa. Quan tâm định hướng, có giải pháp quản lý các khu vực đô thị hóa.
Các nội dung trên cần được cập nhật, cụ thể hóa trong quá trình lập Quy hoạch Vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng như các quy hoạch tỉnh đang được lập tại các tỉnh, thành phố trong Vùng.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị cũng nêu những giải pháp về chính sách phát triển nhà ở, công trình xã hội; đầu tư, phát triển hệ thống hạ tầng đô thị, phát triển đô thị thông minh, hiện đại, quản lý đô thị. Trong đó, đáng chú ý như: Đến năm 2025 hoàn thiện các tiêu chuẩn đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hoá cấp đô thị của các đô thị loại III trở lên. Đến năm 2030, cơ bản giảm thiểu tình trạng ngập úng và ùn tắc giao thông; cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ gắn với cải tạo, chỉnh trang đô thị; cải tạo chỉnh trang các khu dân cư ven kênh rạch gắn với tái định cư…
Trình bày tham luận tại hội nghị, Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu Phạm Viết Thanh khẳng định: Đảng bộ, chính quyền, nhân dân, cộng đồng DN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bày tỏ sự thống nhất cao và quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu Nghị quyết đề ra. Bí thư Tỉnh ủy Phạm Viết Thanh đề nghị Bộ Chính trị song song ban hành 6 nghị quyết cho 6 vùng của cả nước cần ban hành quy chế làm việc có tính chất quy chế mẫu cho 6 vùng để tránh sự lỏng lẻo, hình thức như thời gian qua.
Trước mắt, trong năm 2023 tổ chức ký kết liên kết đào tạo nguồn nhân lực giữa các địa phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam với Tp.Hồ Chí Minh; nghiên cứu tổ chức xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch chung giữa các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ.
"Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ khẩn trương triển khai đầy đủ và có lộ trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết này", ông Phạm Viết Thanh nhấn mạnh...
5 giải pháp gỡ điểm nghẽn hạ tầng giao thông Đông Nam Bộ
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng nêu rõ 5 giải pháp gỡ điểm nghẽn hạ tầng giao thông Đông Nam Bộ. Theo đó, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng.
Hai là, cần đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường sắt, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư.
Ba là, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan toả, liên kết Vùng; Bố trí kịp thời, đầy đủ vốn đầu tư công trung hạn, đồng thời kết hợp hiệu quả nguồn vốn Trung ương và địa phương.
Bốn là, sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông đô thị, đẩy mạnh giải pháp chống ùn tắc giao thông nội đô…
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, về đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông Vùng theo hướng hiện đại, đồng bộ, theo các quy hoạch, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông Vùng khoảng 738.500 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 342.000 tỷ (ngân sách trung ương đã bố trí khoảng 60.800 tỷ); giai đoạn 2026 - 2030, khoảng 396.500 tỷ.
Trong đó, tập trung hoàn thiện đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam, cao tốc nối Tp.HCM với các cửa ngõ, các đầu mối giao thông quan trọng và các đường vành đai thuộc khu vực TPHCM gồm: hoàn thành đường Vành đai 3, Vành đai 4, Bến Lức - Long Thành, TPHCM - Mộc Bài, Tp.HCM - Chơn Thành, Biên Hòa - Vũng Tàu, Dầu Giây - Liên Khương, Gò Dầu - Xa Mát, Chơn Thành - Đức Hòa, Chơn Thành - Gia Nghĩa; tiếp tục đầu tư mở rộng các tuyến cao tốc Tp.HCM - Long Thành - Dầu Giây, Tp.HCM - Trung Lương - Mỹ Thuận theo quy hoạch...
Nhận thức đầy đủ và toàn diện về Nghị quyết, phát huy ưu thế đặc biệt của Vùng
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, tiếp theo 3 Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; Trung du và miền núi Bắc Bộ; và mới đây là Vùng Tây Nguyên, đây là hội nghị thứ 4 được Bộ Chính trị tổ chức nhằm quán triệt sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị và cả nước, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ bao gồm Tp.HCM và 5 tỉnh trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Tổng Bí thư yêu cầu phải nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng. Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, đổi mới, năng động, sáng tạo; ý chí, quyết tâm, khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm, đã đạt được.
“Tất cả các cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong vùng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn nữa về vai trò, vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của vùng động lực phát triển lớn nhất, đầu tàu kinh tế mạnh mẽ nhất cả nước; xác định rõ tiềm năng, lợi thế, những khó khăn, thách thức, điểm nghẽn đối với phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng có vai trò đặc biệt quan trọng để đề ra các chính sách, biện pháp cụ thể, sát hợp, có tính khả thi cao, tạo sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển vùng”, Tổng Bí thư nêu rõ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong vùng, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành, triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng. Tổ chức thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, bảo đảm tích hợp, đa ngành...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, tăng cường, nâng cao, làm tốt hơn nữa công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Thực hiện nghiêm Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị.
Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong, gương mẫu về đạo đức và lối sống; thực hiện nghiêm các chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, trong sạch; giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ.
Một trong những giải pháp trọng tâm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, tính chuyên nghiệp cao và năng lực sáng tạo; tiếp tục cải cách hành chính, phát triển chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số, đô thị thông minh; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi, bảo vệ những cán bộ mạnh dạn đổi mới, sáng tạo; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; khơi dậy tinh thần cống hiến của cán bộ, công chức. Đổi mới công tác dân vận, hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân ta với các nước bầu bạn.
Tổng Bí thư yêu cầu ngay sau Hội nghị này, căn cứ vào Nghị quyết và Kế hoạch của Bộ Chính trị; sự chỉ đạo, hướng dẫn của các Ban đảng Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan ở Trung ương, cũng như các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh.
Tổng Bí thư cũng yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ cần ráo riết chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng. Chương trình hành động phải bám sát các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết, bảo đảm phù hợp với từng địa phương trong vùng và tiểu vùng. Các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hóa Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ thành các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ nhất định sẽ phát huy mạnh mẽ hơn nữa kinh nghiệm đổi mới, truyền thống cách mạng, anh hùng vẻ vang, phẩm chất cao quý, rất tốt đẹp, năng động, sáng tạo, nghĩa tình của người miền Đông; cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo bước chuyển biến mới, có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh ở vùng Đông Nam Bộ, theo tinh thần: Cả nước vì vùng Đông Nam Bộ; vùng Đông Nam Bộ quyết vươn lên cùng với cả nước và vì cả nước; luôn luôn là đầu tàu và động lực phát triển mạnh mẽ nhất của cả nước.
Theo Báo điện tử Đảng cộng sản
Link nội dung: https://tv.thoibaovhnt.com.vn/dong-nam-bo-phai-la-vung-phat-trien-nang-dong-dau-tau-kinh-te-cua-ca-nuoc-a12940.html